Bà Nguyễn Thị Trị còn có tên là Nguyễn Thị Thuyết, người xã
Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, nhân dân địa phương thường gọi là bà
Bổi Lạng.
Thuở nhỏ bà sống cùng mẹ tại địa phương, gia đình nghèo khó
chỉ có mấy sào ruộng bạc màu và căn nhà xiêu vẹo. Nhưng vốn bẩm sinh là người
thông minh lại có nhan sắc và tiết hạnh. Năm 20 tuổi bà kết hôn với ông Sái Đắc
Lộc quê ở Hà Tĩnh, vợ chồng đồng tâm hiệp lực quyết chí làm giàu bằng nghề buôn
bán lúa gạo và chăn nuôi gia súc. Nhờ chăm chỉ và gặp thời nên gia đình bà
nhanh chóng trở thành người giàu có, ruộng có trên nghìn mẫu, tiền có trên vạn
xâu, thóc lúa, trâu bò nhiều không đếm xuể. Dân gian ca ngợi gọi là gia đình Tố
Phong (nghĩa là không làm quan chức gì mà phú quí). Bà là người sống phóng
khoáng, quan tâm đến mọi người và luôn phát tâm công đức làm việc thiện. Bà
xứng đáng với lời truyền tụng trong dân gian:
Thứ nhất cô đỏ Thanh Hoa
Thứ nhì Bổi Lạng
Thứ ba Thạch Sùng.
Ngày nay, tại thôn Đông Phong, xã Bình Lãng còn lưu giữ
được một số di tích liên quan đến bà Nguyễn Thị Trị. Trong số các di tích ấy
đáng kể nhất là khu lăng mộ của bà. Theo tấm bia tại khu lăng cho biết: Vào
cuối đời, bà nhờ Thám hoa Nguyễn Quý Đức, Thượng thư, quốc lão, một nhân vật
danh giá đương thời quê ở Đại Mỗ, Từ Liêm soạn giúp vào bia tự sự và phân chia
tài sản. Hiện tấm bia này được đặt trong khuôn viên khu lăng mộ. Khu lăng mộ
được làm bằng đá xanh ở khu cánh đồng Vông trên diện tích 242 m2. Sách Tứ Kì Phong
Vật chí có ghi rõ: thôn Đông, xã Bình Lãng có một ngôi mộ cổ cao 9 thước, dài 7
thước, rộng 5 thước; toàn bằng đá xanh nhẵn bóng như bôi mỡ, phía trước có
giường đá và thú bằng đá, phía trái có bia bằng đá khắc bài văn do Từ Thiên
tiên sinh tước Liên Quận Công, Thám hoa triều Lê soạn. Hiện nay diện tích khu
lăng mộ đã bị thu hẹp nhưng các di vật của khu lăng mộ vẫn được bảo tồn. Trước
cửa khu lăng là đôi nghê đá ngồi chầu, nét chạm khắc tinh xảo, nghê cao 80cm
(không tính phần bê đá phía dưới). Phía trong là sập đá, sập đá có phần đế rộng
hiện đã lún sâu, thân sập cao 31cm, bề mặt sập đá dài 1,98m, rộng 1,40m bên
thân có bổ ô trang trí, nhưng hiện nay hoa văn đã mờ, một phần mặt sập đã bị
sứt mẻ. Sau sập đá là lăng đá, lăng được làm bằng những phiên đá xanh, ngoài
phần đế, thân lăng cao 2 tầng 8 mái, thân và mái được chạm khắc khá tỉ mỉ. Tầng
thứ nhất cao 1,5 m, dài 2,48m, mặt trước được chạm ô hộc gồm 10 ô, mặt bên 5 ô.
Tầng thứ hai cao 78cm, dài 1,96m, mặt trước được chạm 1 hàng lan can đá trên có
khắc chữ vạn bằng Hán tự. Các mặt bên và mặt sau đều chạm bổ ô hộc. Bên trên
tầng 2 là mái úp, mái được chạm khắc hoa lá phía trên có đài sen, trên đài có
búp sen. Bên trái lăng có tấm bia đá hình tứ trụ, kiểu long đình, bia có niên
đại Vĩnh Thịnh thập lục niên (1720). Bia cao 1m95, rộng 64cm, diềm và trán bia
để trơn, văn bia do Thám hoa Nguyễn Quý Đức người làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm
soạn, khoảng 2000 chữ do thơ Kính Chủ hiệp sơn khắc dựng bia.
Khu lăng mộ của bà Nguyễn Thị Trị còn khá hoàn chỉnh và
đồng bộ, hiện tại tường bao xung quanh đã mất, phần sập đá và lăng đã bị lún
nứt vì vậy cần có kế hoạch tu bổ bảo vệ để giữ gìn một di sản của con người
từng nổi tiếng trong lịch sử.
Ở cuối làng Đông Phong còn 1 di tích gắn bó với cuộc đời bà
đó là khu cố trạch, nơi đây bà đã sống và tiếp đón quan khách, trong đó có cả
chúa Trịnh. Sách Tứ Kì Địa dư phong vật chí có chép: vào năm đói, bà thấy người
đánh cá nghèo đói bèn thương tình lấy đấu gạo đổi lấy cát sỏi. Không ngờ nó
biến thành vàng thế là bà trở thành giàu có. Chúa Trịnh nghe tin liền đến thăm
nhà bà, quân sĩ yến tiệc 3 ngày, bát đĩa cốc chén mỗi ngày thay 1 lượt... Những
ghi chép trên cho thấy một cách lí giải về sự giàu có của bà, nhưng việc chúa
Trịnh đến thăm gia thất của bà và sự tiếp đãi của bà đã chứng tỏ sự giàu có
sang trọng của bà Nguyễn Thị Trị. Hiện tại khu đất nền nhà cũ của bà không còn,
đã chia cho dân làm nhà, dấu tích còn lại chỉ là khu ao sen và ao chèo. Theo
giải thích của các cụ cao tuổi địa phương thì sinh thời đây là khu ao bà thường
chèo thuyền dạo chơi ngắm cảnh. Cùng với khu cố trạch, nhà thờ dòng họ Nguyễn
vẫn còn, nhà thờ trước có diện tích 304m2 trước cửa có ao to, rộng 700m2, hiện
nay nhà thờ đã được tu sửa lại, vẫn giữ nguyên trên nền cũ ngày xưa
Sinh trưởng trong gia đình nghèo khó, nhờ tần tảo buôn bán
làm ăn và gặp thời mà bà trở thành giàu có. Vốn có lòng nhân từ, thích bố thí
làm việc thiện nên bà đã bỏ nhiều tiền của, ruộng đất cho những vùng quê nghèo
khó khăn. Hiện nay tại huyện Tứ Kỳ đi đâu ta cũng bắt gặp lòng hảo tâm của bà với
các địa phương, đó là hệ thống cầu đá bắc qua kênh, mương cho nhân dân đi lại
thuận tiện mà ngày nay mọi người vẫn truyền lại đó là cầu đá bà Bổi. Theo thống
kê, hiện nay ở huyện Tứ Kỳ còn lại 18 cầu đá, bia kí bắc cầu đã thất lạc chỉ
còn lại những câu truyện truyền ngôn trong nhân dân. Trong số các cầu đá này có
cầu đá Mốt tại thôn Tứ Kì Hạ (tức thôn Mũ) xã Phượng Kỳ, nhân dân vẫn gọi là
cầu bà Bổi. Cầu bắc trên đồng làng ra khu vực chùa Khánh Linh, cầu có 5 nhịp
dài 7,5 mét, rộng 1,5 mét được đỡ bởi 6 trụ cầu trên các đầu dầm trụ có chạm
khắc hoa văn. Hiện tại cầu còn tốt và nhân dân vẫn sử dụng.
Một lần bà đi qua bến Vạn thuộc xã La Tỉnh, thấy câu cầu
xưa đã đổ nát, người qua sông phải lội bùn lầy rất bất tiện, họ kêu ca, phàn
nàn. Bà liền cho người mua gỗ lim phiến, đóng hai con thuyền, lại lấy Phạm Cân
và Đỗ Văn Hạ, người bản xã lái đò, cho mỗi người 5 mẫu ruộng để lấy lộc điền
sinh sống chở khách qua sông số ruộng đó được truyền cho những người lái đò
công đức về sau. Hiện nay bến đò Vạn vẫn còn, mặc dù đã có cây cầu bê tông bắc
ở thượng nguồn cách bến đò gần 1km, nhưng khu vực bến đò vẫn được sử dụng cho
các thuyền bè neo đậu và tập kết nguyên vật liệu, phục vụ sản xuất và sinh hoạt
của nhân dân hai thôn La Tỉnh và Vạn Tải.
Một điều dễ nhận thấy ở bà Nguyễn Thị Trị tức Bổi Lạng đó
là những việc làm công đức đều hướng tới việc phục vụ đại đa số nhân dân, bỏ
tiền ra bắc cầu, đóng thuyền cho dân đi lại thuận tiện không cầu lợi, danh vị
đã làm cho uy tín của bà sống mãi trong dân gian và được truyền từ đời này sang
đời khác.
Bà Nguyễn Thị Trị là người phụ nữ
nổi tiếng, một thương nhân thành đạt, có tấm lòng nhân từ sẵn sàng làm việc
thiện. Những di tích liên quan đến cuộc đời của bà đến nay không còn nhiều duy
chỉ có khu lăng mộ là còn khá đồng bộ, nhưng hiện nay đã xuống cấp nghiêm
trọng. Việc đầu tiên cần làm đó là cho tu bổ, nâng cấp khu lăng mộ của bà khang
trang hơn, to đẹp hơn, để tương xứng với tài năng và đức độ của bà. Hơn nữa làm
được như vậy sẽ tạo ra một điểm nhấn về văn hoá, du lịch làm đà giúp cho xã
Bình Lãng vươn lên trở thành một vùng quê giàu đẹp, vững về kinh tế, mạnh về
văn hoá đồng thời cũng là cách đền đáp của thế hệ chúng ta với những công lao
đóng góp của bà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét