Thứ Sáu, 7 tháng 1, 2022

TỔNG QUAN VỀ BÀ BỔI LẠNG

Bà Bổi Lạng ở thôn Đông phong, xã Bình Lãng (Tứ Kỳ) làm nghề xay giã, buôn bán thóc gạo và nổi tiếng giàu có thứ nhì cả nước thời Lê - Trịnh. Bà còn được biết đến là nhà từ thiện lớn trong lịch sử phong kiến thời bấy giờ.

 

Toàn cảnh Lăng Bà Bổi

Theo văn bia còn lưu lại thì bà Bổi Lạng sinh giữa thế kỷ XVII, tại làng Bình Lãng (làng Lạng), huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng (nay là xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ). Thuở nhỏ bà có tên là Thuyết, con gái họ Nguyễn Tá, khi lớn lên đổi tên là Trị. Xuất thân trong gia đình nghèo khó, bố mất sớm, song bà rất chịu thương, chịu khó. Ngoài 20 tuổi, bà kết hôn với ông Sái Đắc Lộc, quê Hà Tĩnh. Vợ chồng tâm đầu ý hợp, chọn nghề xay giã, buôn bán lúa gạo để lập nghiệp nên được gọi là bà Bổi Lạng. Năm Quý Mùi (1703), thóc như ngọc quý, bà lấy của tích lũy được mua ruộng ở các nơi. Chẳng bao lâu bà trở thành người giàu có nhất vùng. Ruộng có nghìn mẫu, tiền có trên vạn xâu, thóc lúa, gia súc nhiều không đếm xuể. Bà lại là người nhân đức, có nhiều con nuôi, thấy nơi nào khó khăn cũng công đức. Bà bỏ tiền làm đường, cầu đá cho dân quanh vùng… Khi về già, bà cũng công đức rất nhiều ruộng đất cho các xã quanh vùng. Bà mất ngày 27-9-1721, năm Tân Sửu.

 



Bia đá ghi công đức của bà Bổi Lạng

Điều thú vị là đến nay, xung quanh cuộc đời của bà còn nhiều câu chuyện ly kỳ lưu truyền trong dân gian. Riêng chuyện bà trở nên giàu có đã có nhiều dị bản. Nhưng chuyện kể bà mò được vàng đáng tin hơn cả. Thuở hàn vi, Bổi Lạng hằng ngày thường ra sông mò hến bán. Một buổi chiều, trong lúc mò hến, bà mò được nhiều vàng bạc, châu báu. Bà mang về nhà cất lấy vốn làm ăn. Có người giải thích, vào cuối thế kỷ XVI, quân Lê - Trịnh và nhà Mạc đã có trận chiến ở khúc sông xã Bình Lãng. Thuyền chở vàng bạc của quân nhà Lê - Trịnh bị đắm rơi hết xuống sông.

 

Không chỉ giàu có, bà còn nổi tiếng với lòng từ thiện, giúp đỡ người nghèo. Phía trước nhà bà có nhánh sông, muốn giúp đỡ kẻ khó, bà bảo họ ra đó mò cua, bắt hến bán cho bà. Khi ốc hến cạn kiệt, họ mò cả sỏi về bán, song bà vẫn mua. Người ta đồn bà Bổi nhìn sỏi ra vàng. Từ đó khúc sông được gọi là sông Vàng. Một lần qua bến Vạn thuộc làng La Tỉnh, thấy cây cầu đã đổ nát, người qua sông phải lội, bà liền cho đóng hai con thuyền, lại sai Phạm Cân và Đỗ Văn Ha là người bản xã lái đò miễn phí cho dân. Bà còn cho mỗi người 5 mẫu ruộng để lấy lộc điền sinh sống. Bà còn bỏ tiền công đức bắc trên 30 cây cầu đá cho dân trong huyện Tứ Kỳ.

 

Vị trí ngày xưa là bến đò Vạn, bên phải là ruộng lộc điền bên xã Minh đức.

Vị trí bến đò được thay bằng cây cầu đi từ Thị trấn Tứ Kỳ sang Xã Minh Đức.


Cầu đá Làng Vực (Nay thuộc xã Chí Minh) cũng xuống cấp nmguyeen trọng.






Cầu đá làng Thái An (Quang Phục)

Những việc từ thiện của bà Bổi Lạng truyền tụng đến tai chúa Trịnh Sâm. Để tìm hiểu thực hư, chúa đã dẫn quan quân đi đường thủy về Bình Lãng. Đến đoạn sông quê bà thấy bụi bay mù mịt, hoa tiêu báo rằng, bụi bay là do nhân dân làng Bình Lãng đang xay giã gạo. Bà Bổi Lạng thấy mình chỉ là kẻ giàu có ở chốn thôn dã mà được chúa đến thăm bèn xin phép khao quân sĩ 3 ngày để tỏ lòng biết ơn. Được chúa đồng ý, bà liền sai gia nhân làm trên trăm mâm cỗ thịnh soạn và dặn trước, quan quân ăn xong không phải rửa bát đĩa, có thể đập mua vui. Suốt 3 ngày tiệc tùng linh đình như thế, nhà chúa bái phục phong cho bà “Phú gia địch quốc” (người giàu có nhất thiên hạ) hay “Thạc nhân” (người đàn bà vĩ đại). Từ “Thạc nhân” được khắc trên lăng mộ của bà. Cũng từ đó trong dân gian lưu truyền câu ca để nói lên sự giàu có của bà: “Thứ nhất cô Đỏ Thanh Hoa/Thứ nhì Bổi Lạng, thứ ba Thạch Sùng".

 

Sự giàu có của bà còn được chép trong sử sách. Trong Kiến văn tiểu lục, đánh giá về các doanh nhân vào cuối thế kỷ XVII ở đồng bằng sông Hồng, Lê Quý Đôn viết: “Năm thứ 20, niên hiệu Chính Hòa (1699) ở nước ta có những người như Huyện Lân ở Thiên Bản, Công Trung ở Thanh Quan, bà Bổi Lạng ở Bình Lãng, Tứ Kỳ…vàng, bạc tiền, thóc kể có ức vạn, đất nhiều ruộng tốt khắp một địa phương". 

Cùng với những câu chuyện được ghi chép trong sử sách, lưu truyền trong dân gian thì tại Bình Lãng vẫn còn khu lăng mộ của bà Bổi Lạng. Ông Nguyễn Tá Triền ở thôn Đông Phong, xã Bình Lãng, hậu duệ gần 400 năm của bà Bổi Lạng, hiện là người trực tiếp thờ cúng hương khói cho bà. Theo ông những thông tin về bà Bổi Lạng được ghi chép khá cụ thể trong gia phả của gia đình cùng văn bia. Chỉ lên chiếc lư hương đá hình chữ nhật cổ kính trên bàn thờ, ông cho biết: Chiếc lư hương đá này được cụ cho làm cùng lăng mộ, bia đá khi còn sống để con cháu hương khói sau khi mất. May mắn đến nay mặc dù trải qua mấy trăm năm, lăng đá, bia của cụ vẫn còn. Các cụ trong họ kể lại: Ngày trước, mỗi khi đến ngày kỵ nhật của bà Bổi Lạng 27-9, người dân các xã được bà giúp làm cầu, làm đò, tặng ruộng đều về làm lễ tế rất đông.

 

Ông Nguyễn Tá Triền dẫn chúng tôi ra cánh đồng thăm khu lăng mộ nữ doanh nhân Bổi Lạng. Khu lăng mộ nằm trên một gò đất khá bằng phẳng rộng gần một sào ở cánh đồng thôn Đông, hai bên có hai cây bàng. Đập vào mắt chúng tôi trước nhất là đôi nghê đá ngồi chầu, được chạm khắc tinh xảo. Phía sau là một sập đá lớn có kích thước khoảng 2 m x 1,5 m. Sau sập đá là lăng đá 2 tầng 8 mái được ghép bằng các phiến đá xanh, chiều cao và chiều dài đều trên 2 m. Phần lăng được tạo tác công phu, chạm các ô hộc, chữ Vạn, tản vân. Bên trên tầng 2 là mái úp chạm hoa sen. Công trình toát lên sự cổ kính, độc đáo, gần như còn nguyên vẹn hình dáng nguyên sơ ngoại trừ một vài phần bị hư hại. Bên trái lăng là bia đá hình tứ trụ có niên đại Vĩnh Thịnh thập lục niên (1720) cao gần 2 m, rộng trên 0,6 m trên có chữ Nho ghi về cuộc đời của nữ doanh nhân Bổi Lạng, bản phân chia tài sản cho các con nuôi, công đức ruộng cho các làng, xã để lo việc thờ cúng cho gia đình mình. Bia đá này do Thám hoa Nguyễn Quý Đức, một tri thức nối tiếng đương thời, người làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm soạn.

 

Cùng với khu lăng mộ, về Tứ Kỳ còn rất nhiều cây cầu đá mà ngày nay người dân vẫn gọi là cầu đá bà Bổi. Theo dòng họ Nguyễn, trong cuộc đời của mình bà Bổi Lạng đã công đức xây dựng cho nhân dân trong vùng 36 cây cầu đá. Trên mỗi cây cầu này đều có chạm một bàn chân. Theo thống kê, hiện nay huyện Tứ Kỳ còn lại 18 cầu đá, bia ký bắc cầu đã thất lạc chỉ còn lại những câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Trong đó có cầu đá Mốt tại thôn Mũ, xã Phượng Kỳ, bắc trên đồng làng ra chùa Khánh Linh được nhân dân gọi là cầu bà Bổi. Cùng với hệ thống cầu đá, hiện nay bến đò Vạn, nơi bà đóng đò chở miễn phí cho dân qua lại vẫn là nơi thuyền bè neo đậu.

 

Cần được bảo tồn

Để làm rõ về thân thế, sự nghiệp của nữ doanh nhân Bổi Lạng, năm 2009, Liên hiệp Các hội khoa học, kỹ thuật tỉnh đã phối hợp với UBND huyện Tứ Kỳ tổ chức hội thảo khoa học “Nữ doanh nhân, nhà từ thiện Bổi Lạng”. Với hàng chục bản tham luận, hội thảo đã cung cấp nhiều tài liệu quan trọng làm rõ thân thế của nữ doanh nhân Bổi Lạng cũng như gợi mở hướng bảo tồn, tôn vinh nhằm phát huy giá trị của di tích. 

 

Thế nhưng đến nay, sau rất nhiều nghiên cứu, vai trò, vị trí của nữ doanh nhân Bổi Lạng trong lịch sử chưa được đánh giá đúng. Các di tích lịch sử, công trình liên quan đến bà cũng chưa được công nhận, bảo tồn và đang chịu sự tàn phá của thời gian, sự xâm lấn của con người. Cùng với lăng mộ bị xâm hại, khu gò đang bị người dân lấn chiếm diện tích, biến thành nơi vứt rơm, rạ.

 

Ông Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Sử học tỉnh cho biết: “Doanh nhân Bổi Lạng là một người phụ nữ điển hình, tấm gương sáng về việc làm giàu trong lịch sử, người có tấm lòng từ thiện giúp đỡ người nghèo, xây dựng nhiều công trình công ích. Những di tích có liên quan đến Bổi Lạng cần được nghiên cứu thấu đáo và bảo tồn. Riêng lăng mộ của bà cần xếp hạng và tôn tạo, vì đó là di tích lịch sử có giá trị của tỉnh nhà”.

 

Khu lăng mộ của bà Bổi Lạng hiện đang rơi vào tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Đề nghị ngành văn hóa, các cơ quan chức năng cần tu bổ, nâng cấp, bảo tồn.


Thứ Ba, 5 tháng 7, 2016

CÒN ĐÂU BẾN ĐÒ VẠN CỦA BÀ BỔI LẠNG.....


Bà Bổi Lạng ngày xưa buôn bán trở nên giầu có nhất trong vùng. Bà thường tậu ruộng đất cho dân thuê cầy cấy rẽ để dân có thóc gạo ăn. Mỗi vụ thu hoạch được mùa xong, người dân lại nộp cho bà chút đỉnh để bà lấy vốn để quay vòng buôn bán.

Bà rất trọng những người lao động, làm ăn chân chính. Chuyện kể lại rằng, những năm mất mùa, lụt lội (Thời đó chưa có đê, dân ven sông Thái bình (sông Cái) quanh năm lụt lội.) Bà thường đổi gạo cho dân bằng cách cứ ai mò được giỏ ốc hay giỏ sành thì bà đổi cho 1 đấu gạo có thể nuôi sống cả ngày.  Tương truyền rằng, ngày xưa người ăn, kẻ ở giúp Bà sản xuất lúa gạo và buôn bán rất đông, sau khi ăn cơm xong bà lại  cho người đập vỡ hết bát đĩa và vứt xuống con ngòi rộng, để dân mò đem đi đổi gạo của Bà. (Bây giờ vẫn còn, khu vực đó toàn mảnh sành mảnh bát. Khi nào rảnh mình đi trải nghiệm và chụp ảnh post lên cho mọi người xem.)


Bà thường xuyên vận chuyển lương thực đem đi trao đổi, buôn bán, Truyền rằng có một lần bà đi qua La Tỉnh, huyện Tứ Kỳ, (Nay là Thị trấn Tứ Kỳ) đến bến sông Vạn. Tại đây, xưa có một cái cầu gỗ, lâu ngày đã hư hại không đi lại được, sông sâu, rộng, nước chẩy xiết. Việc bắc lại cũng không dễ. Khách qua đường phải lội bùn lầy rồi bơi qua sông, nhiều người ca thán. Thấy vậy, bà liền cho người mua gỗ lim phiến, đóng 2 con thuyền, lấy hai người bản xã là Phạm Cân và Đỗ Văn A làm lái đò lâu dài chở khách qua sông. Bến đò đó là Đò Vạn bêy giờ. Bà lại cho mỗi người 5 mẫu ruộng cạnh ngay tại bến đò để cày cấy hưởng hoa lợi để chở đò công đức cho dân. Số ruộng đó được chuyển tiếp cho những người chở đò của những thế hệ sau thừa kế. 

Đò Vạn là nơi đi lại của cả dân xã Minh Đức - Tứ kỳ. Nơi có con sông là nhánh sông Luộc, nay là Hệ thống Bắc Hưng Hải phục vụ tưới tiêu cho toàn vùng. Bến đò Vạn tồn tại đến cuối những năm 80 của thế kỷ trước, sau đó họ cho bắc cầu phao qua sông nhưng vẫn tồn tại đò. Năm 2005, Tỉnh Hải dương mở Tỉnh lộ 392 từ Thị trấn Tứ Kỳ đi Ninh giang, và bắc cây cầu bê tông qua con sông này.






Vị trí bến đò Vạn ngày xưa


Khu ruộng Bà Bổi cấp cho những  người chở đò.





Và bây giờ được thay bằng Cầu bê tông nhưng vẫn là Cầu Vạn.



Đánh bắt cá dưới chân cầu, giáp với bến đò xưa



Thứ Tư, 29 tháng 6, 2016

ĐI TÌM DI TÍCH BÀ BỔI LẠNG CÒN SÓT LẠI TẠI CÁC ĐẠI PHƯƠNG


1) CẦU ĐÁ TAI MÈO TẠI LÀNG VỰC - XÃ TỨ XUYÊN - H.TỨ KỲ- T.HẢI DƯƠNG

a) Quang cảnh chung



Nhìn chung trong tất cả khoảng 5 cầu đá do Bà Bổi Lạng xây dựng tại các địa phương trong vùng, thì duy nhất có 1 cái cầu đá tại làng Vực thuộc xã Tứ Xuyên là còn tương đối nguyên vẹn, tuy nhiên hiện nay đã xuống cấp.











Xung quanh cầu  Hoa súng nở đầy sông.





2) CẦU ĐÁ THÁI AN - Thuộc thôn Thái An - Xã Quang Phục.

Đã xuống cấp, dân làm đường vòng quanh cầu, nhưng 1 phần đổ bê tông chèn lên mặt cầu ở hai bên khoảng 4 mét.



Nhưng rất may, dân đã có ý thức bảo tồn di tích này




Mố cầu




NGÀY XƯA, ĐƯỜNG Ở HAI BÊN FĐẦU CẦU ĐỀU CÓ CÁC PHIẾN ĐÁ XANH, BẮC GIỮA. KÍCH THƯỚC 600mmx600mm, KHOẢNG CÁCH CÁC PHIẾN ĐÁ KHOẢN 500mm.

NHƯNG NGÀY NAY, ĐƯỜNG ĐÃ BÊ TÔNG HÓA HẾT, CÓ LẼ HỌ ĐỔ BÊ TÔNG LÊN.

MỎI MẮT KIẾM THÌ THẤY CÒN KHOẢNG MẤY MÉT ĐƯỜNG ĐẤT VÀ CÒN ĐÚNG 2 PHIẾN ĐÁ XANH NHƯ THẾ NÀY ĐÂY:




Ở MỘT BÊN CẦU ĐÁ THÁI AN CÒN TẤM BIA ĐÁ, GHI CÔNG ĐỨC CỦA BÀ BỔI. ĐẾN NAY BIA VẪN CÒN NHƯNG NÉT CHỮ ĐÃ MỜ HẢN.



Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016

MỘT SỐ HÌNH ẢNH LĂNG BÀ BỔI HIỆN NAY


VỊ TRÍ LĂNG TRÊN BẢN ĐỒ 




TOÀN CẢNH LĂNG


Bà Bổi là con gái dòng họ NGUYỄN TÁ trong làng Lạng Đông. Hiện nay dòng họ Nguyễn Tá ( Đời thứ 16, 17 của cụ)  đã tu sửa phần nào và bao quanh khu vực lăng.


Mới đây, sau một thời gian dài lãng quên, lăng đã được xếp vào di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh. Tuy  nhiên, theo thời gian, các phần đỉnh lăng và xung quang đang xuống cấp trầm trọng





Trong khu vực Lăng có một cặp Nghê ( Ngày xưa chúng tôi gọi là Chó đá). Giữa đôi Nghê là bàn cờ  (sập) bằng đá xanh rất đẹp, có trang trí xung quanh. Nhưng hiện nay không còn và người ta đắp dựng vá bằng bê tông.

Ngoài ra trong khu vực lăng còn có tháp văn hình tứ trụ, nóc long đình, ghi nguồn gốc và công đức của cụ. Tương truyền  văn bia này do Thám hoa Nguyễn Quý Đức người làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm soạn vào năm Vĩnh Thịnh (1720).



Mặt trước văn bia


Và mặt bên văn bia ghi bằng hán tự.


Di tích Lăng bà Bổi hiện nay đã xuống cấp, Nhân dân địa phương rất cần sự quan tâm của các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, bảo tàng ... nghiên cứu, vận động, đóng góp, xây dựng để góp phần tôn tạo lịch sử và văn hóa vùng quê nghèo hẻo lánh.



Thứ Năm, 1 tháng 10, 2015

KHU DI TÍCH THỜ BÀ BỔI LẠNG



di_tich_den_tho_ba_nguyen_thi_tri_tai_Binh_Lang_Tu_ky

Di tích đền thờ bà Nguyễn Thị Trị xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ.


Bà Nguyễn Thị Trị còn có tên là Nguyễn Thị Thuyết, người xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, nhân dân địa phương thường gọi là bà Bổi Lạng. 

Thuở nhỏ bà sống cùng mẹ tại địa phương, gia đình nghèo khó chỉ có mấy sào ruộng bạc màu và căn nhà xiêu vẹo. Nhưng vốn bẩm sinh là người thông minh lại có nhan sắc và tiết hạnh. Năm 20 tuổi bà kết hôn với ông Sái Đắc Lộc quê ở Hà Tĩnh, vợ chồng đồng tâm hiệp lực quyết chí làm giàu bằng nghề buôn bán lúa gạo và chăn nuôi gia súc. Nhờ chăm chỉ và gặp thời nên gia đình bà nhanh chóng trở thành người giàu có, ruộng có trên nghìn mẫu, tiền có trên vạn xâu, thóc lúa, trâu bò nhiều không đếm xuể. Dân gian ca ngợi gọi là gia đình Tố Phong (nghĩa là không làm quan chức gì mà phú quí). Bà là người sống phóng khoáng, quan tâm đến mọi người và luôn phát tâm công đức làm việc thiện. Bà xứng đáng với lời truyền tụng trong dân gian:

Thứ nhất cô đỏ Thanh Hoa
Thứ nhì Bổi Lạng
Thứ ba Thạch Sùng.

Ngày nay, tại thôn Đông Phong, xã Bình Lãng còn lưu giữ được một số di tích liên quan đến bà Nguyễn Thị Trị. Trong số các di tích ấy đáng kể nhất là khu lăng mộ của bà. Theo tấm bia tại khu lăng cho biết: Vào cuối đời, bà nhờ Thám hoa Nguyễn Quý Đức, Thượng thư, quốc lão, một nhân vật danh giá đương thời quê ở Đại Mỗ, Từ Liêm soạn giúp vào bia tự sự và phân chia tài sản. Hiện tấm bia này được đặt trong khuôn viên khu lăng mộ. Khu lăng mộ được làm bằng đá xanh ở khu cánh đồng Vông trên diện tích 242 m2. Sách Tứ Kì Phong Vật chí có ghi rõ: thôn Đông, xã Bình Lãng có một ngôi mộ cổ cao 9 thước, dài 7 thước, rộng 5 thước; toàn bằng đá xanh nhẵn bóng như bôi mỡ, phía trước có giường đá và thú bằng đá, phía trái có bia bằng đá khắc bài văn do Từ Thiên tiên sinh tước Liên Quận Công, Thám hoa triều Lê soạn. Hiện nay diện tích khu lăng mộ đã bị thu hẹp nhưng các di vật của khu lăng mộ vẫn được bảo tồn. Trước cửa khu lăng là đôi nghê đá ngồi chầu, nét chạm khắc tinh xảo, nghê cao 80cm (không tính phần bê đá phía dưới). Phía trong là sập đá, sập đá có phần đế rộng hiện đã lún sâu, thân sập cao 31cm, bề mặt sập đá dài 1,98m, rộng 1,40m bên thân có bổ ô trang trí, nhưng hiện nay hoa văn đã mờ, một phần mặt sập đã bị sứt mẻ. Sau sập đá là lăng đá, lăng được làm bằng những phiên đá xanh, ngoài phần đế, thân lăng cao 2 tầng 8 mái, thân và mái được chạm khắc khá tỉ mỉ. Tầng thứ nhất cao 1,5 m, dài 2,48m, mặt trước được chạm ô hộc gồm 10 ô, mặt bên 5 ô. Tầng thứ hai cao 78cm, dài 1,96m, mặt trước được chạm 1 hàng lan can đá trên có khắc chữ vạn bằng Hán tự. Các mặt bên và mặt sau đều chạm bổ ô hộc. Bên trên tầng 2 là mái úp, mái được chạm khắc hoa lá phía trên có đài sen, trên đài có búp sen. Bên trái lăng có tấm bia đá hình tứ trụ, kiểu long đình, bia có niên đại Vĩnh Thịnh thập lục niên (1720). Bia cao 1m95, rộng 64cm, diềm và trán bia để trơn, văn bia do Thám hoa Nguyễn Quý Đức người làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm soạn, khoảng 2000 chữ do thơ Kính Chủ hiệp sơn khắc dựng bia.

Khu lăng mộ của bà Nguyễn Thị Trị còn khá hoàn chỉnh và đồng bộ, hiện tại tường bao xung quanh đã mất, phần sập đá và lăng đã bị lún nứt vì vậy cần có kế hoạch tu bổ bảo vệ để giữ gìn một di sản của con người từng nổi tiếng trong lịch sử.

Ở cuối làng Đông Phong còn 1 di tích gắn bó với cuộc đời bà đó là khu cố trạch, nơi đây bà đã sống và tiếp đón quan khách, trong đó có cả chúa Trịnh. Sách Tứ Kì Địa dư phong vật chí có chép: vào năm đói, bà thấy người đánh cá nghèo đói bèn thương tình lấy đấu gạo đổi lấy cát sỏi. Không ngờ nó biến thành vàng thế là bà trở thành giàu có. Chúa Trịnh nghe tin liền đến thăm nhà bà, quân sĩ yến tiệc 3 ngày, bát đĩa cốc chén mỗi ngày thay 1 lượt... Những ghi chép trên cho thấy một cách lí giải về sự giàu có của bà, nhưng việc chúa Trịnh đến thăm gia thất của bà và sự tiếp đãi của bà đã chứng tỏ sự giàu có sang trọng của bà Nguyễn Thị Trị. Hiện tại khu đất nền nhà cũ của bà không còn, đã chia cho dân làm nhà, dấu tích còn lại chỉ là khu ao sen và ao chèo. Theo giải thích của các cụ cao tuổi địa phương thì sinh thời đây là khu ao bà thường chèo thuyền dạo chơi ngắm cảnh. Cùng với khu cố trạch, nhà thờ dòng họ Nguyễn vẫn còn, nhà thờ trước có diện tích 304m2 trước cửa có ao to, rộng 700m2, hiện nay nhà thờ đã được tu sửa lại, vẫn giữ nguyên trên nền cũ ngày xưa

Sinh trưởng trong gia đình nghèo khó, nhờ tần tảo buôn bán làm ăn và gặp thời mà bà trở thành giàu có. Vốn có lòng nhân từ, thích bố thí làm việc thiện nên bà đã bỏ nhiều tiền của, ruộng đất cho những vùng quê nghèo khó khăn. Hiện nay tại huyện Tứ Kỳ đi đâu ta cũng bắt gặp lòng hảo tâm của bà với các địa phương, đó là hệ thống cầu đá bắc qua kênh, mương cho nhân dân đi lại thuận tiện mà ngày nay mọi người vẫn truyền lại đó là cầu đá bà Bổi. Theo thống kê, hiện nay ở huyện Tứ Kỳ còn lại 18 cầu đá, bia kí bắc cầu đã thất lạc chỉ còn lại những câu truyện truyền ngôn trong nhân dân. Trong số các cầu đá này có cầu đá Mốt tại thôn Tứ Kì Hạ (tức thôn Mũ) xã Phượng Kỳ, nhân dân vẫn gọi là cầu bà Bổi. Cầu bắc trên đồng làng ra khu vực chùa Khánh Linh, cầu có 5 nhịp dài 7,5 mét, rộng 1,5 mét được đỡ bởi 6 trụ cầu trên các đầu dầm trụ có chạm khắc hoa văn. Hiện tại cầu còn tốt và nhân dân vẫn sử dụng.

Một lần bà đi qua bến Vạn thuộc xã La Tỉnh, thấy câu cầu xưa đã đổ nát, người qua sông phải lội bùn lầy rất bất tiện, họ kêu ca, phàn nàn. Bà liền cho người mua gỗ lim phiến, đóng hai con thuyền, lại lấy Phạm Cân và Đỗ Văn Hạ, người bản xã lái đò, cho mỗi người 5 mẫu ruộng để lấy lộc điền sinh sống chở khách qua sông số ruộng đó được truyền cho những người lái đò công đức về sau. Hiện nay bến đò Vạn vẫn còn, mặc dù đã có cây cầu bê tông bắc ở thượng nguồn cách bến đò gần 1km, nhưng khu vực bến đò vẫn được sử dụng cho các thuyền bè neo đậu và tập kết nguyên vật liệu, phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân hai thôn La Tỉnh và Vạn Tải.

Một điều dễ nhận thấy ở bà Nguyễn Thị Trị tức Bổi Lạng đó là những việc làm công đức đều hướng tới việc phục vụ đại đa số nhân dân, bỏ tiền ra bắc cầu, đóng thuyền cho dân đi lại thuận tiện không cầu lợi, danh vị đã làm cho uy tín của bà sống mãi trong dân gian và được truyền từ đời này sang đời khác.

Bà Nguyễn Thị Trị là người phụ nữ nổi tiếng, một thương nhân thành đạt, có tấm lòng nhân từ sẵn sàng làm việc thiện. Những di tích liên quan đến cuộc đời của bà đến nay không còn nhiều duy chỉ có khu lăng mộ là còn khá đồng bộ, nhưng hiện nay đã xuống cấp nghiêm trọng. Việc đầu tiên cần làm đó là cho tu bổ, nâng cấp khu lăng mộ của bà khang trang hơn, to đẹp hơn, để tương xứng với tài năng và đức độ của bà. Hơn nữa làm được như vậy sẽ tạo ra một điểm nhấn về văn hoá, du lịch làm đà giúp cho xã Bình Lãng vươn lên trở thành một vùng quê giàu đẹp, vững về kinh tế, mạnh về văn hoá đồng thời cũng là cách đền đáp của thế hệ chúng ta với những công lao đóng góp của bà.

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2015

LY KỲ CHUYỆN BÀ BỔI

Thứ nhất cô Đỏ Thanh Hoa/ Thứ nhì Bổi Lạng, thứ ba Thạch Sùng. Câu ca này có ý nghĩa ngợi ca ba người giàu có vào hàng tuyệt đỉnh mà tôi nhớ từ khi còn để chỏm. Nhưng sau này mới biết Thạch Sùng ở đời Tần (Trung Quốc), cô Đỏ Thanh Hoa cũng chưa rõ, còn Bổi Lạng lại ở ngay quê mình, thuộc huyện Tứ Kỳ, sống dưới triều vua Lê Hy Tông thế kỷ 18.  
Khu lăng mộ nữ doanh nhân, nhà từ thiện Bổi Lạng

BẮT ĐẦU TỪ CHUYỆN CHÚA TRỊNH ĐI THĂM NỮ PHÚ THƯƠNG

Làng Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương có người đàn bà tên là Nguyễn Thị Trị, nhũ danh là Thuyết, lấy chồng họ Sái, nổi tiếng giàu có , tiếng vang khắp cả xứ Đông, bay vào tận thành Thăng Long, đến tai chúa Trịnh. Vốn nhà chúa hiếu kỳ, lại là người độc đoán, ngài nảy ý đi kinh lý một chuyến xem thực hư ra sao. Nếu có chuyện như vậy thì bắt Sái thị phải đóng góp cho triều đình. Nếu thị phi, sẽ trừng trị thẳng tay những kẻ đơm đặt làm giảm uy danh nhà chúa. Bởi thời ấy có lời đồn rằng Sái thị còn giàu hơn và chi tiêu còn hào phóng hơn nhà chúa nhiều lần.

Đoàn tùy tùng có dăm trăm quan quân, đến trấn lỵ Hải Dương lại có khoảng dăm trăm sĩ tốt đi theo hộ tống, tính ra gần một nghìn người. Cờ giong trống mở náo động cả vùng sông nước. Sái thị vui mừng tột độ. Bà chỉ là một thứ dân giàu có mà được đích thân chúa đến thăm thì vinh hạnh vô cùng. Sái thị quỳ lạy:

- Khải chúa, dân nữ vốn con nhà nông phu, chỉ kiệm cần lao động, bươn chải trên chốn thương trường, trước là chịu ân điển nhà chúa, sau là nhờ phúc ấm tổ tiên mà từ hai bàn tay trắng, có ruộng vườn sản nghiệp. Nay được chúa để mắt tới, hạ cố về thăm, dân nữ chúng con muôn phần cảm động. Tỏ lòng ơn chúa, xin cho chúng con được thết đãi ba quân, được hầu hạ nhà chúa một lần, dẫu có chết đi cũng muôn phần thỏa nguyện.

Chúa Trịnh nghe lời Sái thị tâu bày, thấy kẻ dân phụ tuy giàu có mà khoan dung giản dị, lời lẽ chân thành cung kính, thật lòng, bèn chuẩn y:

- Đã vậy cho nhà ngươi tùy lòng, nếu không hại gì đến sản nghiệp...

Sái thị sai người nhà dựng rạp, làm cỗ chiêu đãi quan lính và đoàn tùy tùng phủ chúa. Hàng nghìn người ăn uống thả sức trong ba ngày. Tất cả thức ăn là sơn hào hải vị, được mua từ các nơi xa chuyển về. Tất cả bát đĩa, dụng cụ trong bữa ăn dùng toàn đồ sang trọng quý phái. Hết bữa này sang bữa khác toàn dùng đồ mới, không cần phải rửa ráy gì hết. Từng đoàn xe ngựa, phu khuân vác mang đồ sành sứ từ Bát Tràng, Chu Đậu, hoặc từ lò gốm Cậy về Bình Lãng, khiến cho cả chặng đường dài mù mịt ngựa xe. Quân lính nhà chúa được một phen đánh chén thỏa thích. Ngà ngà rượu say, chúng tranh luận phẩm bình rồi gây gổ lời nọ tiếng kia sinh ra ẩu đả, dùng chén bát, ấm đĩa choảng nhau túi bụi. Nhà chúa biết tin định xử tội, Sái thị bèn chạy tới quỳ trước thiên nhan:

- Khải chúa, nhân ngày vui thế này, xin chúa bớt giận. Đối với dân nữ dù bị vỡ vài trăm chiếc bát, vài nghìn cái chén, cũng chẳng sá gì với công ơn của chúa, của anh em binh lính xông pha trận mạc bảo vệ triều đình. Xin chúa rộng lòng tha cho anh em, thì dân nữ mới thỏa lòng. Nếu Chúa ra tay, thì dân nữ lại đắc tội với gia đình họ. Rằng vì dân nữ thết đãi mà con em họ phải mất mạng...

Chúa lại tha. Được thể, bọn quan quân vừa đánh chén, vừa đòi hút xách, nghe hát cô đầu. Chúng phá phách, thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể. Nhìn cảnh tượng ấy ai ai cũng lắc đầu lè lưỡi, mà Sái thị dửng dưng không tỏ gì tiếc của. Nhà chúa cũng phải thầm phục.

Sái thị ân cần đưa chúa đi thăm cảnh quan gia đình. Tới đâu cũng thấy trâu bò, lợn gà gia cầm gia súc đầy đàn đầy đống. Các kho thóc lúa ngô khoai ngập tràn như kho của nhà chúa. Rồi dẫn chúa đi thăm những công trình bà làm công đức cho dân làng, khu vực. Chúa cũng thầm phục con người vừa giàu có lại rộng rãi, tính tình cởi mở khoan dung... Quân lính càng kính phục bà, bởi một người quê mà giàu sang, phóng túng. Họ ở chốn kinh kỳ mà chẳng bao giờ được ăn chơi xả láng như ở cái làng Bình Lãng hẻo lánh này.

Ngày Sái thị qua đời, người ta làm ma cho bà thật long trọng. Biết tính bà khi còn sống đã rộng rãi, nên dân làng dựng rạp từ nhà bà ra tới lăng mộ, lợp toàn bằng bánh đa để che nắng cho mọi người đưa ma. Xong công việc, bánh đa ấy chia cho trẻ con và dân làng ăn. Thế nên thời ấy có câu ca: 

Thứ nhất cô Đỏ Thanh Hoa
Thứ nhì Bổi Lạng, thứ ba Thạch Sùng

Từ một người con gái nông thôn, trở thành phú thương

Nhà nghèo, siêng năng sống ở vùng quê lụt lội, ngoài hai chục tuổi, Nguyễn Thị Trị lấy chồng họ Sái quê Hà Tĩnh. 

Vợ chồng Sái Thị chọn nghề buôn bán lúa gạo để lập nghiệp. Những năm nước lũ, họ đoán biết tình hình nên bàn nhau thu mua gạo để dành. Sau mùa lụt lội , giá gạo chênh lệch giữa các vùng đã cho vợ chồng Sái thị những khoản lãi lớn. Họ tậu ruộng, trâu bò, mở rộng trồng cấy, đầu tư chăn nuôi gia súc. Và cứ thế sản nghiệp của ông bà ngày càng sinh sôi nảy nở, chẳng bao lâu trở thành giàu có nổi tiếng khắp vùng rộng lớn, vượt ra khỏi địa hạt xứ Đông... Nói đến bà, người ta biết đó là một gia đình có ruộng đất thẳng cánh cò bay, tiền vạn xâu, thóc lúa trâu bò không sao đếm xuể...

Bà là người hiếu thảo, nuôi hai con trai trưởng thành, lại nhận nhiều con nuôi, con đỡ đầu, quan tâm các cụ bà và bạn bè từ thuở hàn vi. Bà có lòng từ thiện.

Đến vùng quê La Tỉnh, cùng huyện Tứ Kỳ thấy chiếc cầu gỗ bắc qua sông Vạn cũ kỹ hỏng nát, dân chúng qua đây rất khó khăn, lại nguy hiểm tính mạng. Bà chẳng đắn đo cho người mua gỗ lát đóng 2 con thuyền, chọn hai người bản xã là Phạm Cân và Đỗ Văn Ha làm lái đò lâu dài chở khách sang sông. Bà cho mỗi người 5 mẫu ruộng tại bản xã, cày cấy hưởng hoa lợi để chở đò công đức cho dân. Những ruộng ấy lại chuyển cho thế hệ sau chở đò được thừa kế.

NHỮNG GIAI THOẠI VỀ NHÀ PHÚ THƯƠNG BỔI LẠNG

Con người có thật trong lịch sử đã được dân gian lưu truyền nhiều giai thoại: Thuở nhỏ cô đi mò cua bắt hến ở con sông gần làng để sinh sống hàng ngày. Một lần vào buổi chiều, cô mò được một sảo hến rất ngon, đem về ngâm nước chờ sớm mai ra chợ bán. 

Sáng hôm sau khi đổ hến vào thúng định mang đi, thì lạ chưa, trước mắt cô là những thỏi vàng. Gia đình cô trở nên giàu có. Từ đó Bổi Lạng thường bắc cầu, dựng quán, công đức và chu cấp giúp đỡ người nghèo, cảm thông nỗi khốn khó như mình thuở trước.
Lại có chuyện: Thuở đói nghèo, Bổi Lạng thành tâm tín Phật. Tâm đức bà thấu tới tận Trời, Phật. Một năm trời làm lụt lội, mùa màng mất cả, cơn đói hoành hành khắp vùng quê. Bà đem thóc gạo của mình chia cho người đói khổ, chỉ cho mình mấy thùng sỏi. Người dân cảm động khấn lạy trời phật ban cho bà giàu có để giúp đỡ nhân gian. Thật lạ kỳ, những hòn sỏi đều biến thành vàng cả. Bà thành giàu có lại tiếp tục làm công đức và buôn bán làm ăn trở thành đại danh gia, lừng danh cả nước, đến vua chúa cũng phải nể phục.

Thực ra Bổi Lạng là người khôn ngoan, nhanh trí hơn người, biết tính toán làm ăn và cần cù thương khó. Bà lại kín đáo và sống có hiếu nhân. Nhà gần sông Thái Bình chảy qua, hàng ngày bà ra sông mò hến khi thủy triều lên xuống. Một chiều, nước sông rút đi, bà theo mép nước ra xa mò hến thì nhặt được mấy thỏi vàng, càng mò thêm lại càng có nhiều báu vật. Bà mang về và lấy đó làm vốn để buôn bán trao đổi giữa thương trường. Vàng bạc châu báu ấy có thể là của nhà Mạc, trong một trận kịch chiến với quân Lê - Trịnh cuối thế kỷ 16, trên đoạn sông Thái Bình, khu vực làng Bình Lãng. Số vàng bạc ấy quân Lê - Trịnh bị đắm thuyền rơi hết xuống sông, dù mò vớt vẫn không thể nào hết được?

Chúng tôi đã về thăm khu bia bà Bổi Lạng. Mới đến đầu làng hỏi, từ trẻ em đều bảo: “Các bác tìm bia bà Bổi Lạng à? Kia kìa, chỗ hai cây cao to đấy". Lăng cổ tọa lạc trên giữa cánh đồng ở phía nam làng Bình Lãng. Lăng xây bằng đá khối, hình tháp có chiều cao khoảng 5-6 mét. Phía trước có thạch sàng, bên phải có tấm bia hình long đình khá lớn. Trán bia có dòng chữ “Sái phụ Nguyễn Thị Trị sản chí phú tự sự bi ký” (Bia tự truyện về bà Nguyễn Thị Trị, vợ người họ Sái, rất giàu có). Văn bia do thám hoa Nguyễn Qúy Đức soạn, thợ đá An Hoạch (Thanh Hóa) và Kính Chủ (Hải Dương) khắc dựng bia và lăng vào tháng 4 năm Vĩnh Thịnh 16, khi chủ nhân còn sống. 

Tìm hiểu, thì biết trên đất Tứ Kỳ bây giờ còn 18 cầu đá, trong đó cầu làng Mũ, xã Phượng Kỳ được dân gọi là cầu Bà Bổi... Cầu dài 7,5 mét rộng 1,5 mét có 5 nhịp, được đỡ bởi 6 trụ cầu vẫn còn sử dụng.
Theo báo Hải Dương

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

BÀ BỔI LẠNG - PHÚ GIA ĐỊCH QUỐC


Ở xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương có một người phụ nữ được chúa Trịnh Sâm phong là phú gia địch quốc. 

Bao nhiêu tài sản bà làm ra chỉ để giúp đỡ dân nghèo và làm cầu cho dân chúng đi. Tên đầy đủ của bà là Nguyễn Thị Thuyết, người dân thường gọi bà là Bổi Lạng.

Phú gia địch quốc

Chúng tôi tìm về thôn Đông Phong, xã Bình Lãng hỏi thăm về gốc tích của bà Bổi Lạng, mọi người đều nói rằng ông Nguyễn Tá Triền là họ hàng gần với bà Bổi Lạng.

Gặp chúng tôi, ông Triền tự hào nói rằng ông là hậu duệ đời thứ 17 của bà Bổi Lạng, người đã mất cách đây khoảng hơn 400 năm trước. Theo tư liệu mà ông Triền cung cấp cho chúng tôi, thuở nhỏ bà Bổi Lạng rất nghèo khó, hằng ngày đi mò cua bắt ốc lấy tiền nuôi mẹ. Một buổi chiều tà nước thủy triều sông Thái Bình rút xuống bà mải mê mò hến thì đột nhiên mò được một thỏi vàng, càng mò càng được nhiều vàng bạc, bà lẳng lặng mang về.

Có người cho rằng, số vàng bạc châu báu đó có từ cuối thế kỷ thứ XVI khi quân Lê - Trịnh giao chiến với quân nhà Mạc trên sông Thái Bình, đoạn qua xã Bình Lãng. Khi đó, số tài sản mà quân Lê - Trịnh cướp được của nhà Mạc bị đắm thuyền rơi hết xuống sông. Nhờ mò được vàng bạc đó mà bà Bổi Lạng có vốn làm ăn trở nên giàu có.


Dù được khắc hơn 400 năm nhưng những tấm bia đá nơi đây vẫn nguyên vẹn. (Ông Chiền bên bia lăng)

Ông Triền cho hay, theo văn bia ở khu mộ ghi lại, xưa kia cụ Bổi làm nghề buôn bán lúa gạo và chăn nuôi gia súc để lập nghiệp, một nghề khi đó vừa có thể giúp đỡ dân nghèo vừa có thể làm giàu nhanh chóng. Có những năm mất mùa, giá thóc gạo đắt như vàng bạc, bà đã bán hết gia sản lấy tiền làm vốn tậu ruộng, chăn nuôi gia súc, trợ cấp cho người nghèo. Thời gian sau bà trở thành người giàu có nhất vùng, ruộng có nghìn mẫu, tiền có trên vạn xâu, thóc lúa gia súc nhiều vô kể. Khác với những người khác khi có tiền thường mua quan bán chức, nhưng bà dành tiền đó để giúp đỡ dân nghèo.

Thời Lê - Trịnh, bà Bổi Lạng được người đời liệt kê vào một trong hai người giàu nhất nước. Bà giàu đến mức tiếng tăm lan cả vào kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh Sâm biết chuyện tức tốc dẫn quân lính về gặp bà. Chúa Trịnh đem theo đoàn quân phục tùng hộ giá ngót nghét cả nghìn người. Bà Bổi Lạng thấy mình chỉ là kẻ giàu chốn quê mùa nhưng được chúa hạ cố xuống hỏi thăm thì vui mừng khôn xiết. Bà dẫn chúa Trịnh đi thăm quan cơ ngơi của mình, nhìn thấy ruộng vườn bát ngát, gia súc nhiều vô kể, chúa Trịnh Sâm mới thốt lên rằng đúng là người đàn bà phú gia địch quốc. Bà ngỏ lời mời chúa Trịnh cùng quân quan ở lại ba ngày ba đêm để mở tiệc chiêu đãi. Mỗi ngày bà cho người làm hàng trăm mâm cỗ để mời mọi người thưởng thức, bà dặn ăn uống xong quân lính không phải rửa bát, có thể đập vỡ tùy thích.

Cây cầu này do bà Bổi Lạng làm để cho dân chúng đi lại thuận tiện. (Cầu đá Thái An)

Làm cầu cho người dân trong vùng
Về xã Bình Lãng chúng tôi được nghe các cụ cao niên nơi đây kể về việc bà Bổi Lạng chia ruộng đất, thóc lúa cho những người dân nghèo. Đặc biệt bà đầu tư tiền xây dựng tất cả 36 cây cầu, giúp cho người dân trong vùng đi lại thuận lợi. Cụ Nguyễn Tá Tàu (85 tuổi) kể: Có một lần bà đi qua xã La Tỉnh, huyện Tứ Kỳ, đến bến sông Vạn, tại đây trước kia có cây cầu bằng gỗ lim, nhưng lâu ngày đã hư hỏng, khách qua đường phải lội bùn lầy qua sông. Thấy vậy, bà đã cho người mua gỗ lim, đóng hai con thuyền, lấy hai người trong làng để chở đò miễn phí cho người dân qua lại. Để trả công cho người chở đò bà đã cấp cho họ 5 mẫu ruộng để họ cầy cấy sinh sống.
Cụ Tàu cho hay trong số 36 cây cầu bà xây cho người dân trong vùng giờ vẫn còn nhiều cây cầu tồn tại. Nhiều người dân trong làng nói rằng xưa kia bà Bổi Lạng cũng dành tiền để xây dựng cầu cho người trong làng. Nhưng khi đó có một số người đàn ông trong làng không muốn bà xây dựng, họ cho rằng bà là gái góa chồng. Vì thế nên bà cũng không làm cầu cho làng nữa.
Theo chân anh Lê Văn Ngọc, công an viên xã Bình Lãng, chúng tôi được mục sở thị cây cầu đá có niên đại trên dưới 400 năm. Cây cầu này được gọi là cầu đá Đen nằm tại thôn Thái An, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ. Anh Ngọc bảo, qua thời gian nhưng cây cầu vẫn còn rất kiên cố. Trước đây, mỗi khi xây cầu xong bà đều kiểm tra độ vững chắc của cầu bằng cách đặt bàn chân lên cầu thật mạnh, nếu như cầu không sập thì mới bàn giao cho dân làng sử dụng.


Chiếc bát hương là hiện vật duy nhất của bà Bổi Lạng để lại.  (nhà Ông Chiền)

Rải bánh đa làm rạp và khu lăng mộ có một không hai

Cụ Nguyễn Thị Dảo (82 tuổi) mẹ của ông Triền cho hay: "Cụ Bổi Lạng giàu có nhất xứ Đông. Nhưng gần như tài sản, ruộng vườn cụ chia cho dân nghèo hết. Con cháu cũng chỉ được một phần nhỏ. Trước đây, gia đình chúng tôi còn hoành phi câu đối của cụ để lại. Nhưng năm 1950, ngôi nhà đã bị quân thực dân Pháp thiêu rụi, mọi người chỉ giữ lại duy nhất chiếc bát hương. Vì thế, tài sản của cụ Bổi Lạng để lại chỉ còn chiếc bát hương".

Trước đây, khi cụ mất đi người dân làng quý trọng cụ, đã làm rạp từ đầu làng ra tận nghĩa trang ngoài cánh đồng. Ở phía trên rạp mọi người lợp bằng bánh đa, làm lễ tang cho cụ xong người dân lấy bánh đa chia cho trẻ con. Do nướng vội bánh đa làm rạp che cho bà nên từ đó làng đó có tên là làng Vội.

Ông Triền cho biết: Theo văn bia ghi trong lăng mộ thì trước khi bà Bổi Lạng qua đời, bà đã làm lăng mộ trước. Mộ được làm bằng đá xanh rất kiên cố, xưa kia bà cho người vào tận núi An Hoạch ở Thanh Hóa để lấy. Đích thân thám hoa Lê Quý Đức, nổi tiếng người có quyền uy thời Lê - Trịnh về để viết văn bia cho bà.


Khu lăng mộ bà Bổi Lạng nằm giữa cánh đồng.


Ông Triền dẫn chúng tôi vượt qua cánh đồng lúa bát ngát để đến khu mộ của bà Bổi Lạng. Phía trước khu lăng mộ là hai chú chó bằng đá, có ý nghĩa để bảo vệ khu mộ, xung quanh là những tấm bia ký. Và ở giữa là khu lăng mộ ba tầng. Ông Triền bảo, qua thời gian, mưa bão nhưng lăng mộ gần như vẫn còn nguyên vẹn. Tuy lăng mộ được xây dựng nguy nga ở giữa cánh đồng, nhưng chưa chắc thi hài của bà có nằm ở đó. Bởi người xưa sợ kẻ xấu biết chỗ chôn cất sẽ đào mộ lên để tìm vàng bạc.
Ông Triền cho hay, năm 2009 các cơ quan ban ngành trong tỉnh đã tổ chức cuộc hội thảo khoa học: "Nữ doanh nhân - Nhà từ thiện Bổi Lạng" nêu lên những công trạng của bà trước đây, để Nhà nước công nhận khu lăng mộ của bà Bổi Lạng là khu di tích lịch sử của tỉnh. Nhưng đến nay vẫn chưa thấy cơ quan nào đả động đến. Khu lăng mộ của bà bị các gia đình làm ruộng xung quanh lấn chiếm. Dòng họ ông Triền cũng muốn xây dựng bao quanh diện tích đất của khu lăng mộ, tuy nhiên con cháu chưa có điều kiện nên đành nhìn cỏ cây bao vâỵ.


"Công trạng của bà Bổi Lạng đối với dân chúng xưa kia là vô cùng lớn lao. Hiện trong vùng còn nhiều cây cầu do bà làm. Chúng tôi đã quy hoạch dành diện tích đất để xây dựng khu lăng mộ cho bà. Đồng thời đề xuất lên các cấp trong tỉnh sớm công nhận lăng mộ của bà Bổi Lạng là di tích lịch sử cấp tỉnh".
Ông Nguyễn Ngọc Cùng (Chủ tịch UBND xã Bình Lãng)

Theo Đức Lợi - Kiến thức